1/31/2015

Mẹ Ơi! Xuân Nay Con Lại Không Về ...

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


sáng tác & trình bày dzuylynh . album Phía Sau Nỗi Buồn


(kính dâng lên Mẹ Việt Nam 
- Mẹ ơi! cho con thưa lời xin lỗi , xuân nay con lại không về...)


đêm nằm nghe tiếng mưa rơi
từng giọt nhặt khoan đầy vơi 
có phải mùa xuân đang tới?
ánh bình minh hồng non sông!
xua tan tháng ngày đông tối...
đêm nằm thao thức nghe mưa 
từng giọt buồn thương đầy vơi
nghe chừng mùa xuân đang tới
cho Mẹ tuổi hạc chồng cao
trăng khuya góc núi khuyết dần

mưa rơi mưa rơi...
giọt mưa hay hạt ngọc trời?
kết thành nỗi nhớ khôn nguôi
cho con xin được dâng Người
Mẹ già bao năm xa cách
thương hoài đàn con viễn xứ
mỏi mòn đêm đợi ngày trông!

luân lạc thêm một mùa xuân
bóc tờ lịch cuối trên tường
lư trầm ngào ngạt mùi hương
dung thân xứ lạ quê người
máu đỏ da vàng vẫn nhớ
lung linh ánh lửa niềm tin
biền biệt dù xa quê xưa
lòng son sắt chẳng quên nguồn...

mưa ơi mưa ơi ! cho ta nhắn gửi đôi lời
hòa theo lệ nhớ đến Người
xin thưa Mẹ chớ mong chờ
xuân nay con vẫn chưa về
khi quê hương còn khói lửa
chị còn đói khát tự do!
em còn thống khổ lầm than!

Mẹ ơi Mẹ ơi! tha hương giữ vẹn câu thề
chưa tròn ước nguyện chưa về
Mẹ Việt Nam ơi! xuân nay con vẫn chưa về...
Mẹ Việt Nam ơi! xuân nay con lại không về!
Mẹ Việt Nam ơi! xuân nay con lại không về!


đấtthahương28Tếttânmão.Jan.21.2012.dzuylynh







1/27/2015

Tâm Hạnh

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


 thơ Cao Nguyên | nhạc & trình bày Dzuylynh
( Minh Văn phổ nhạc tặng Diệu Linh. Diệu Hiền )



Bên anh đang mùa Đông
Gió tràn hiên buốt lạnh
Bên anh nắng Hạ hong
Khô mạch đồng lúa mạch

Ơi này gió này nắng
Sao không về giữa Xuân
Cho em hồng tâm đạo
Và anh xanh ý thơ

Cũng đành chờ em hỡi
Giữa vời vợi đất trời
Những rộn ràng cũ mới
Hồng xanh cỏ hoa tươi

Đông rồi qua Hạ bay
Đêm thôi dày gió lạnh
Ngày vơi mỏng nắng hanh
Thơ vào mùa tâm hạnh







1/25/2015

Thằng Khùng Trong Trại Tù Cải Tạo

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe câu truyện)


tác giả Phùng Quán | diễn đọc Dzuylynh


Lời tác giả: Mặc dầu là một Phật tử, xin mời các hiền huynh và quý bạn đọc bài viết nói về Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài. (viết lại theo lời kể của nhà văn Nguyễn Tuân)



"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen…Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…

Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào- sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.

- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.

- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

________

Ghi Chú:

(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).


TẤM GƯƠNG CAN TRƯỜNG


Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges. Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.  Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.

Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này à!”

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.

Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP. Hà Nội - 2013








1/22/2015

Dân Ta Vẫn Còn Là Người

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


Lời Bùi hồng Lĩnh | Nhạc & trình bày Dzuylynh



Con trâu là để kéo cày
Con người là để làm thầy con trâu
Cày bừa vỡ đất cho sâu
Nhiều người lam lũ thay trâu kéo cày
Nhọc nhằn kéo mãi thân gầy
Ăn không đủ để ngày mai ra đồng
Trâu ăn no cỏ trời trồng
Em tôi bụng đói không mong mỏi gì
Hát đi em, để làm chi?
Để còn hăng hái mà ghì cái gông!!!

Đu dây để vượn trong rừng
Qua sông qua suối qua từng ngọn cây
Vượn ăn vượn uống tràn đầy
Đu nhanh như thể cái dây là nhà
Sao em lại khác người ta?
Ngày ngày bám lấy dây cao đến trường...
Duới sông nước chảy xuôi nguồn
Cái cầu không có lo buồn quanh năm
Vượn trông vượn nghĩ xa xăm
Con người sao lại chơi khăm giống mình???

Đống rác là để ruồi bu
Kiếm ăn xong lại về ru ấm lòng
Em tôi nhặt mãi không xong
Rác chưa đầy túi trong lòng không vui
Đêm về một giấc ngủ vùi
Trăng sao vẫn tỏ, ngậm ngùi co ro
Ruồi sao chẳng có phải lo
Tung đôi cánh vỗ ấm no suốt đời
Em đi khắp chốn khắp nơi
Mang theo bụng đói nhìn trời hàng đêm...

Dân ta phải hơn con trâu!
Phải hơn con vuợn! phải hơn con ruồi!
Dân ta vẫn còn là Người
Phải còn tỉnh để đổi đời đau thương!







1/20/2015

Văn Tế 74 Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Chiến Hoàng Sa



(xin mời bấm vào YouTube hay bấm vào link dưới để nghe bài văn tế)


Nguyễn Phúc Vĩnh Ba . Dzuy Lynh diễn đọc



Hỡi ơi!

Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.

Mới hay,

Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,
Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào ngại.
Kính các anh vị quốc thân vong
Bày một lễ thâm tình cung bái.
Nhớ các anh xưa,
Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.

Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn (1) chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước (2) còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị (3), mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền (4), vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.

Thế nên,

Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.
Hội khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời,
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.

Có ngờ đâu,

Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo (5), xây đồn đắp lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật (6),... giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh (6),... chúng đang xơi tái.

Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư (7) né né tiễn lôi lèo lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài” (8)
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi” (9)

Thế nhưng,

Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại (10).
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.

Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Dù như thế ta vẫn quyết thư hùng
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành trọng pháo nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà (11) trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt (12) lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ thuyền mình câu vọng lại.

Thương ơi!

Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.

Công các anh,

Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,
Xương anh linh rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.

Hôm nay.

Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Xót uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.

Hỡi ơi!

Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thụ bái.


Huế, ngày 15.01.2015
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba







1/18/2015

Hoàng Trường Sa

(xin mời bấm vào YouTube hay bấm vào link dưới đây để nghe bài hát)


thơ Cao Nguyên | nhạc & trình bày Dzuylynh
album Việt Nam Minh Châu Trời Đông



Ơi Hoàng Sa! Hỡi Trường Sa! 
Bi thương tiếng gọi sơn hà Việt Nam 
Đang còn bị giặc xâm lăng 
Nước trào rỉ máu, Đất oằn xót đau! 

Ơi Trường Sa! Hỡi Hòang Sa! Ơi Tổ Quốc! Hỡi Đồng Bào! 
Yêu thương tiếng gọi thắm màu quê hương 
Âm vang trống giục sa trường 
Bạch Đằng dậy sóng quật cường oai nghiêm! 

Giơ tay cao thét lời nguyền 
Hận thù Bắc Thuộc hịch truyền xuất quân 
Đánh cho giặc Hán kinh hồn 
Muôn đời khiếp sợ tinh thần Văn Lang! 

Hoàng Sa,Trường Sa là của Việt Nam 
Đã trong sử sách ngàn năm lưu truyền 
Trống đồng hào khí linh thiêng 
Hãy vang lên khắp mọi miền núi sông! 

Triệu con tim một tấm lòng 
Quyết tâm tiêu diệt giặc ngòai thù trong 
Việt Nam ơi! Tổ Quốc ơi! 
Triệu con dân Việt sẽ khơi sử hồng! 

Từ Trường Sơn tới Biển Đông 
Thịt da xương máu con Rồng cháu Tiên 
Núi Sông là một mạch liền 
Không ai có thể đảo điên Sơn Hà! 







1/16/2015

Nếu Mai Này Vắng Anh

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


sáng tác | trìnhbày Dzuylynh 
album cánh thiên di 



nếu mai này vắng anh 
em chiếc lá xa cành 
lá không còn màu xanh 
giòng thơ tým mong manh 
chỉ còn là hư ảnh 
từ tim giọt thương yêu 
chỉ còn lại hoang phế 
nếu mai này vắng anh 
em có thức bên mành 
đèn khuya còn khêu bấc 
dệt lời trên án thư 
đàn tấu khúc tương như 
hòa giọng hát tương tư 
nếu mai này vắng anh 
màu thơ sẽ úa nhàu 
sẽ tựa vào nơi đâu 
đổ vào hạt mưa mau 
giá lạnh từng đêm thâu 
chẳng còn gì cho nhau 
nếu mai này vắng anh 
chẳng còn nợ chi nhau 


Dec.26.2012






1/13/2015

Bốn Mươi Năm...

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


 sáng tác & trình bày Dzuylynh
 album Tháng Tư.Em.Nỗi buồn


Bốn mươi năm vùi sâu trong cơn mộng mị
Bốn mươi năm luân lạc mỏi cánh thiên di
Bốn mươi năm bao người đã bỏ nước ra đi?
Bốn mươi năm sầu bi uất hận để làm gì!

Bốn mươi năm quay đầu nhìn về cố quốc
Để thương Em, tàn phai sau cánh cửa ngục tù
Để thương Anh, thân mòn vì xiềng xích cùm gông
Thương những Con Người suốt đời vì tổ quốc non sông...

Bao anh thư đã kiêu hùng hy sinh mạng sống
Mấy anh hào đã hiến mình mà vị quốc vong thân
Từ mùa xuân quê nhà được mang danh giải phóng
Hỏi đến bây giờ có còn gì không?

Thân ly hương nuốt nhục quên đi mà sống
Đã mấy lần tự hỏi Nước Việt tôi đâu! 
Quê hương mình bao giờ thóat cuộc bể dâu?
Bốn mươi năm... Vùi hồn sâu dưới nấm mộ sầu!

Bốn mươi năm, quân thù xâm lăng giày xéo
Bấy nhiêu năm, dân tôi thống khổ đói nghèo
Vẫn mong chờ một ngày dậy tiếng quân reo
Mảnh dư đồ ba miền ta vẽ lại từ đây!

Bốn mươi năm, Đất Mẹ bị đem đi chào bán
Bốn mươi năm, giặc mua về một mảng Dân Oan
Bốn mươi năm, rừng hoang mọc lên lũ tham quan
Việt Nam... đang chìm sâu đáy biển lửa hoang tàn

Hãy ngưng thôi những bài thơ ru tình ái
Hãy ngưng thôi khúc nhạc than khóc bi ai
Viết lên đi những gì thay thế dân tôi!
Nói lên đi, nói giùm cho Tổ Quốc Sơn Hà!

Dzuylynh 2015













1/12/2015

Mắt Lá


(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


sáng tác & trình bày Dzuylynh
album Ở giữa là mùa thu


ngoài trời chiếc lá bay mang mùa thu về
nào em có biết!
hay là em có quên!
tým thẫm hòang hôn tým nỗi buồn...
chiều ...
có đôi chiêc lá quấn quít bên nhau
cùng buông mình trong nuối tiếc ngày xanh
đôi mắt lá?
có phải không?
chớm thu tiển người như cành tiễn lá
mình xa nhau từ một dạo vỡ mối duyên đầu
lá rơi ...lá rơi...về đâu!
hỏi lá kia biết lá về đâu?
cho lời thơ em nức nở canh thâu
tình yêu đã ra đi chỉ còn đôi mắt lá bơ vơ
lá ngẩn ngơ
thẩn thờ...
khi tình đã ra đi
chỉ còn
đôi mắt em ở lại
tròn
như vòng khói thuốc trên tay
trong anh
nghe tiếng thu điệp từ dĩ vãng
tým mùa thu,
tým nỗi sầu hoang liêu...
ngã xuống chông chênh triền nhớ
giọt sương bềnh bồng rơi ướt đôi mắt lá
mắt em...
buồn ơi... mùa thu ơi ...


.dzuylynh.Nov 11.2012.







1/10/2015

Đôi Bờ

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


thơ Quảng Nhẫn . phổ nhạc & trình bày Dzuylynh
album Trên Phiến Tình buồn. April.7.2012



Có một gìong sông ở giữa chúng mình 
Bắt nguồn từ những vụn vặt đời thường không ngờ tới 
Dòng sông không bến đợi … 
Mãi miết đẩy hai bờ ra xa 
Anh như con chim bói cá 
Ngu ngơ tìm mổ chân cầu 
Giật mình trong chiều bóng ngã 
Bàng hòang nước chảy về đâu ? 
Bàng hòang nước chảy về đâu … 
Có một giòng sông ở giữa chúng mình ! 
Giòng sông chảy ngược ! 
Lòng sông không chảy bằng con nước 
Bằng những nỗi đau sóng dậy bạc đầu 
Em như bờ lau trổ cờ trong mùa gió chướng 
Cuồn cuộn đó .…lắng trầm cũng đó … 
Vẫn còn khát chảy đại dương... 
Có một giòng sông ở giữa chúng mình 
Bốn mùa gió chướng ! 
Đôi bờ lận đận tìm nhau 
Đôi bờ quay mặt ngẫng đầu 
Đôi bờ lận đận tìm nhau …









1/08/2015

Xa Em Rồi

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


thơ Đuyên Hồng | phổ nhạc Huyền Băng | hòa âm & trình bày dzuylynh



cứ nhắm mắt nói lời tiễn biệt
xa em thôi ! dẫu biết chẳng dễ dàng
đến lúc này giật mình anh chợt hiểu
em thân thương quen thuộc biết bao nhiêu !
ngày chia xa cứ tưởng vẫn bình thường...
như tất nhiên , như hình với bóng
em đã ngấm vào anh từng sự sống
như thịt da hơi thở riêng mình
ngày xa nhau trời đất cũng chênh vênh
cuộc sống cũng chia thành hai nửa
nửa thân quen là em nỗi nhớ
nửa bơ vơ anh lạc vô bờ...
từng nụ cười từng nét vui tinh nghịch
ngày hôm nay bỗng vời vợi cách xa
em nơi nao, giữa năm châu bốn bể ?
để lòng anh thương nhớ chợt vỡ òa...








1/05/2015

Ngã




Hãy rót cho anh ly rượu đỏ 
Hắt xuống đời em sợi khói xanh 
Chân xiêu hài cỏ giang hà rách 
Tay níu càn khôn khanh khách cười 
Thành phố mưa bay...Em còn nhớ ? 
Luyến lưu chi dáng cũ phai mờ ! 
Cánh chim non ngạn... chân trời trắng 
Thánh giá, mân côi, hạt chuỗi tràng 
Ta nghe tiếng hát xa ngàn quá. 
Em đẩy vầng trăng ngã sóng soài 
Bóng mây còn lại hay ngọn lá 
Xé mảnh trăng ngà đau xót xa ... 

Dzuylynh






1/02/2015

Tháng Giêng

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


thơ Lê Phú Hải | nhạc Dzuylynh | trình bày lêphúhải.dzuylynh 
album Mai Vẫn Còn Xuân.Feb11.2013 



tháng giêng chân trần ra phố 
phố ơi buồn từ bao giờ ? 
dáng ai ngày xưa nho nhỏ 
bây giờ xô dạt về đâu ! 

gió thổi giọt mưa rơi mau 
nghe như giọt buồn nước mắt 
quê hương không còn chia cắt 
sao hồn cứ mãi ngóng trông... 

gác vắng chiều nay còn không ? 
tiếng đàn rơi trong lặng lẽ 
người ơi ru đời đi nhé ! 
bao giờ cho hết thương đau ? 

ta hứa sẽ về tìm nhau 
leo lên đồi cao đàn hát 
đừng buồn chi sơn khách lạc 
miễn là mắt biếc còn đây... 

lưu lạc đã mờ chân mây 
sá gì đường xa vạn dặm 
phương nam thương người lắm lắm 
cầm bằng không biết thì thôi ! 

có chiếc lá khô mồ côi 
của ai ngày xưa còn đó 
ta để dành đây nè nhỏ 
nhớ về phương bắc xa xôi...






Tháng Năm ... Biển Và Em ...

(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)


thơ Nnmmtđ | nhạc & hát Dzuylynh
album Cánh thiên di .Half Moon Bay Jan 15.2013



tháng năm xõa tóc theo gió 
bay xuống đời xanh biển mơ 
ta vẽ nét cười con gái 
bước nhẹ về từ trong thơ ... 


ta vẽ... em trần... như biển 

không dấu vết của loài người 
chỉ có nỗi niềm của sóng 
hiền hòa triều tóc em thôi ! 


tháng năm buồn qua nỗi nhớ 

theo ta ra biển một mình 
biển trầm chìm... mênh mông quá 
ta chợt thấy đời lặng thinh 


ta chợt biến thân làm cát 

khô khan giữa đời bơ vơ 
ngàn năm nằm nghe biển hát 
chờ em... nỗi chờ hư vô ! 


tháng năm hóa thành giấc ngủ 

trôi chiều hạ vàng ngẩn ngơ 
có em... biển tràn hố mắt 
khát đời ta... giọt lệ khô... 










Em Có Còn Yêu Anh


(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài đọc)


thơ Bùi Hồng Lĩnh . Dzuylynh diễn đọc



Em yêu
Anh đã mang ánh trăng huyền diệu về cho em từ bao năm nay
Em cũng lấp lánh như những vì sao trên bầu trời đêm trong suốt
Tình em cũng như những giải mây bềnh bồng trôi theo những ngọn gió êm
Anh cũng đã tặng tình đôi ta những chiếc lá vàng mùa thu với chút lành lạnh của trời đất năm nào
Em còn nhớ không
Những đóa lan em mang đến cho anh mùa xuân ấy trong căn phòng nhỏ làm ấm cả buổi chiều
Anh thương em như đồi, như núi, như sông, như nước thong dong róc rách những điệu nhạc
Anh thương em như những con nai chạy ngây thơ trong rừng bên suối, uống những giọt nước mátBên em, bên nhau bên đời ngập hạnh phúc
Em thì thích những chiều còn nắng, thấp thoáng những tà áo bên ngôi trường cũAnh thì thích nhìn em thoăn thoắt trong chiếc áo dài lụa mỏng mới may
Em yêu, em vẫn nhớ không emAnh cũng cho em những hạt cát trắng trên bờ biểnNhững giải sương mờ mờ trên mặt sông thủa nhỏ
Cho em những cơn mưa phùn, mưa bụi, mưa ngâu
Mưa rào mưa như trút làm ngập những con đường xưa
Em yêu
Một ngày nào đó
Nếu anh không còn mang cho em trăng sao, không mây không lá vàng mùa thu
Không rừng không suối
Và những giòng sông không mưa không sương mù
Biển cũng không còn những bãi cát trắng
Không còn nắng chiều êm ả
Những cành lan thơm ngát ngày nào khô héo đến thiên thu
Anh làm sao biết nói yêu em
Anh mượn gì để nói yêu em
Không biết có còn em ngày đó
Không biết em còn yêu anh
Khi người làm thơ đã tự làm mất đi hình ảnh và nhạc của tình yêu


Bùi Hồng Lĩnh8/14/2012